Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025) dấu mốc lịch sử chói lọi của Dân tộc Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với ưu thế áp đảo nghiêng về phe Đồng minh. Tại châu Âu, Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân đội các nước Anh, Mỹ, Pháp, Canađa… liên tiếp giành thắng lợi, giải phóng nhiều quốc gia và tiến vào Béclin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh ở châu Âu kết thúc. Tại châu Á - Thái Bình Dương, quân đội phát xít Nhật rơi vào thế bị bao vây, uy hiếp nặng nề. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai chính thức chấm dứt.
Tình hình ấy mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Trung ương Đảng nhận định: đây là thời cơ “ngàn năm có một” để nhân dân ta vùng lên giành lại độc lập. Trong khi quân Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, thực dân Pháp đã rắp tâm quay trở lại, tìm cách dựa vào Đồng minh, còn các thế lực khác cũng bắt đầu can thiệp; nếu không chớp lấy cơ hội này, vận hội dân tộc có thể bị bỏ lỡ.
Ngay từ ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn, ra chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp. Ngày 12/3/1945, Trung ương ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, khẳng định: “Đây là thời cơ tốt để nhân dân ta vùng lên giành độc lập”.
Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 16/4, Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo thành lập các Ủy ban dân tộc giải phóng từ Trung ương đến địa phương. Đầu tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo toàn quốc. Ngày 4/6/1945, Khu Giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập. Từ giữa năm 1945, cao trào kháng Nhật cứu nước lan rộng, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần diễn ra mạnh mẽ tại nhiều địa phương trên cả nước.
2. Diễn biến
Đầu tháng 8/1945, thời cơ cách mạng xuất hiện, những điều kiện cho tổng khởi nghĩa đã đầy đủ. Ngày 11/8, Nhật đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam họp nhận định đây là "cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới". Đêm 13/8, Quân lệnh số 1 phát đi kêu gọi nhân dân toàn quốc "Kẻ thù chúng ta đã ngã gục. Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh. Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà".
Ngày 16/8, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) với hơn 60 đại biểu, đại diện cho hơn 20 triệu người dân Việt Nam nhất trí chủ trương tổng khởi nghĩa, xác định chính sách đối nội, đối ngoại, quốc kỳ, quốc ca, cử ra Chính phủ cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào cả nước "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Tại Thái Nguyên, trong ngày 16/8, đội Việt Nam Giải phóng quân do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về thị xã. Sáng 20/8, đội quân bao vây, tấn công phát xít Nhật, giải phóng thị xã Thái Nguyên. Chiều cùng ngày, tại đây đã diễn ra cuộc mít tinh lớn, Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ bộ máy chính quyền cũ, lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên.
Tại Hải Phòng, nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 23/8/1945. Trước đó vào ngày 18/8, nhân dân ở 4 tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ thành công. Đây là các tỉnh giành được chính quyền sớm nhất trong cả nước.
Tại Hà Nội, sáng sớm 19/8, đường phố ngập sắc cờ đỏ sao vàng. Các nhà máy, công xưởng, chợ búa, trường học đều đóng cửa. Hơn 200.000 nhân dân nội ngoại thành tập trung trước Quảng trường Nhà hát lớn để dự lễ mít tinh ủng hộ cách mạng.
Dưới sự chỉ huy của Xứ ủy Bắc Kỳ, cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình vũ trang, đánh chiếm các vị trí đầu não quan trọng của Hà Nội, như Phủ Khâm sai, Tòa thị chính, Sở cảnh sát, trại Bảo an binh... Khi Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, Trung ương Đảng thấy đây là một sáng tạo của Xứ ủy Bắc Kỳ nên chỉ thị cho các địa phương nơi nào có điều kiện thì tiến hành khởi nghĩa như cách của Hà Nội.
Tại Huế, ngày 23/8, hơn 150.000 nhân dân xuống đường mít tinh, tuần hành vũ trang buộc chính quyền đầu hàng. Vua Bảo Đại thoái vị, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ phong kiến Việt Nam. Tại Bảo tàng Lịch sử Cách mạnh Thừa Thiên - Huế hiện còn lưu giữ hình ảnh bằng mô hình về sự kiện vua Bảo Đại thoái vị. Vị vua cuối cùng của triều Nguyễn trao ấn kiếm cho ông Trần Huy Liệu cùng hai thành viên khác gồm Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận là những đại diện cho phái đoàn của Chính phủ cách mạng lâm thời bấy giờ. Lễ tuyên chiếu thoái vị và trao ấn kiếm diễn ra vào chiều 30/8/1945 tại Ngọ Môn (Đại nội Huế) dưới sự chứng kiến của hàng chục nghìn người dân. Với chiếu thoái vị, vua Bảo Đại nói "Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của trẫm. Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ".
Tại Quảng Ngãi, đội du kích Ba Tơ tiến về giải phóng thị xã. Trong hai ngày 23 và 24/8, có thêm 19 tỉnh thành giành được chính quyền, bao gồm Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu, Hà Nam, Phú Thọ, Quảng Yên, Đăk Lăk, Phú Yên, Bình Thuận, Gò Công, Mỹ Tho.
Tại Sài Gòn, ngày 25/8, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật. Sau đó, 13 tỉnh Nam Bộ khởi nghĩa thắng lợi, bao gồm: Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Sa Đéc, Kon Tum, Sơn La, Cần Thơ, Rạch Giá, Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.
Nhân dân Cần Thơ khởi nghĩa giành chính quyền ngày 26/8/1945. Như vậy, chỉ trong hai tuần lễ, tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Trong hơn 60 tỉnh, thành khởi nghĩa, có 4 tỉnh lỵ dọc biên giới phía Bắc là Hà Giang, Lào Cai, Móng Cái, Lai Châu bị phản động, quân Tưởng rồi sau đó là quân Pháp chiếm đóng nên chưa được giải phóng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập - tự do; kỷ nguyên Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với lịch sử Việt Nam mà còn mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Thắng lợi ấy đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa và các lực lượng bị áp bức trên thế giới đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi đó, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập mà còn khẳng định vị thế và con đường phát triển của mình trong dòng chảy của lịch sử thế giới hiện đại. Chỉ sau đó vài ngày, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công – nông đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1945
*Đối với dân tộc Việt Nam
· Khẳng định quyền độc lập, tự do và ý chí kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng của toàn dân tộc.
· Chính thức tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và ách thống trị phát xít Nhật.
· Góp phần củng cố, đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh chính trị – tinh thần cho nhân dân bảo vệ chính quyền non trẻ.
*Đối với thế giới
· Thể hiện lập trường hòa bình, chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, phù hợp với tuyên ngôn nhân quyền và xu thế tiến bộ của nhân loại.
· Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
4. Bài học thực tiễn đối với đội ngũ viên chức, người lao động Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Lạng Sơn
Trong giai đoạn hiện nay, việc ôn lại và phát huy những bài học từ Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025) không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc đối với mỗi cá nhân, tập thể, nhất là với đội ngũ công chức, viên chức, người lao động trong ngành y tế.
a. Tinh thần yêu nước và trách nhiệm công dân
- Mỗi viên chức, người lao động cần nâng cao nhận thức chính trị, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, từ đó xây dựng thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, vì lợi ích chung của người bệnh và cộng đồng.
- Tích cực tham gia các hoạt động xây dựng đơn vị, giữ gìn an ninh, trật tự, đóng góp vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
b. Đoàn kết, phát huy sức mạnh tập thể
- Cách mạng Tháng Tám là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong công tác chuyên môn hiện nay, tinh thần đoàn kết nội bộ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các khoa, phòng là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của bệnh viện.
c. Chủ động nắm bắt thời cơ, đổi mới sáng tạo
- Bài học "nhạy bén với thời cơ" từ Cách mạng Tháng Tám cho thấy, mỗi viên chức ngành y cần không ngừng đổi mới tư duy, cập nhật kỹ thuật mới, ứng dụng chuyển đổi số, nâng cao chất lượng phục hồi chức năng cho người bệnh.
- Chủ động học tập suốt đời để thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của y học và yêu cầu đổi mới ngành y tế.
d. Nêu cao đạo đức nghề nghiệp, phụng sự nhân dân
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả của một lý tưởng vì nhân dân. Mỗi cán bộ y tế cần khắc ghi và thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Lương y phải như từ mẫu”, xem người bệnh là trung tâm phục vụ, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, y đức trong nghề.
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025) là dịp để mỗi viên chức, người lao động Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Lạng Sơn ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, ý thức trách nhiệm trong công tác và cuộc sống. Tập thể bệnh viện quyết tâm tiếp tục phát huy tinh thần cách mạng, đổi mới sáng tạo, đoàn kết vượt khó, phấn đấu xây dựng bệnh viện ngày càng hiện đại, hiệu quả, xứng đáng là địa chỉ tin cậy của nhân dân trong công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và khu vực.
Tác giả: Trần Thị Ngọc Mai - Phòng TCHC, Bệnh việN PHCN